top of page

Danh tướng Lý Thường Kiệt và tuyên ngôn độc lập – chủ quyền sông núi nước Nam

Lý Thường Kiệt (1019-1105), tên thật là Quách Tuấn. Ngọc phả họ Ngô có từ đời Nguyễn chép rằng Lý Thường Kiệt tên thật là Ngô Tuấn. Nhưng văn bia được tìm thấy ở Hưng yên có từ đời Hậu Lý cho biết rằng ông họ Quách, Quách Tuấn. Thường Kiệt là tên tự, được ban Quốc tính (họ nhà vua), sau lấy tên chữ làm tên. Ông là người quê gốc tỉnh Hưng Yên, tinh thông thao lược, lại giỏi cả văn chương.

Năm 23 tuổi, vào làm quan trong triều, với chức Hoàng môn chi hậu, rồi thăng dần lên chức Thái úy, làm quan ở 3 triều vua nhà Lý: Thái Tông, Thánh Tông và Nhân Tông (1028-1128). Lý Thường Kiệt có công rất lớn trong việc đánh Tống, bình Chiêm, bảo vệ và xây dựng đất nước, khi chết được tặng tước Việt Quốc Công. Ông là người được đương thời kính trọng, ngàn đời sau còn ghi nhớ công lao.


Bài thơ "Nam quốc sơn hà" (Sông núi nước Nam) xưa nay vẫn được cho là Lý Thường Kiệt sáng tác, còn gọi là "Thơ Thần". Tương truyền, bài thơ được Lý Thường Kiệt sai người vào đền thờ Trương Hống và Trương Hát, ban đêm đọc to cho quân sĩ nghe, để khích lệ lòng yêu nước của tướng sĩ, trong bối cảnh cuộc chiến giữa Đại Việt và quân Tống xâm lược còn đang ở thế giằng co trên phòng tuyến sông Như Nguyệt (sông Cầu), nay nằm giữa hai tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh.


NAM QUỐC SƠN HÀ

Nam quốc sơn hà Nam đế cư / Tiệt nhiên định phận tại thiên thư / Như hà nghịch lỗ lại xâm phạm / Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư !


Dịch nghĩa:

SÔNG NÚI NƯỚC NAM

Núi sông nước Nam, vua Nam ở / Cương giới đã ghi rành rành trên sách trời / Cớ sao lũ giặc bạo ngược kia dám đến xâm phạm / Hãy chờ xem, chúng bay nhất định sẽ chuốc lấy bại vong !


"Nam quốc sơn hà Nam đế cư", vang lên như một niềm tự hào chính đáng, về một dân tộc có chủ quyền, một nước có người làm chủ, chính danh, chính đại và cả chính nghĩa nữa!


Một nước có chủ quyền, hiện hữu, có văn hiến riêng đàng hoàng, cương vực lãnh thổ riêng, phong tục tập quán riêng, vẫn đang tồn tại, và tồn tại một cách mạnh mẽ. Nguyễn Trãi (1380-1442) sau này, dựa trên tinh thần tư tưởng này đã viết trong "Bình ngô đại cáo": "Như nước Đại Việt ta từ trước/ Vốn xưng nền văn hiến đã lâu / Núi sông bờ cõi đã chia / Phong tục Bắc Nam cũng khác"… Bắc Nam đây là (Phương Bắc) và Đại Việt (Phương Nam).


Câu thứ hai, "Tiệt nhiên định phận tại thiên thư" (Điều ấy đã được ghi rất rõ ràng ở sách trời). Nếu như câu thứ nhất thể hiện chứng lý về sự thật hiện hữu CỦA NÚI SÔNG BỜ CÕI, thì câu thứ hai là chứng lý về tâm linh, phi vật chất.


Vậy thì cớ gì mà lũ giặc cuồng bạo kia lại dám đến đây xâm phạm vào bờ cõi của ta (Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm)? Một câu hỏi tu từ. Hỏi, nhưng là để khẳng định chính nghĩa của ta, khẳng định bản chất phi nghĩa của kẻ thù. Rằng bọn xâm lược kia chỉ là giặc cướp, ngang nhiên liều lĩnh xâm phạm chủ quyền độc lập của ta.


Câu cuối là kết quả hành động xâm lược "phi nghĩa, phi đạo" của giặc Tống, cũng đồng thời là niềm tin tất thắng của ta. Rằng "Chúng bay" (nhữ đẳng) "sẽ được xem" (hành khan), nhất định sẽ tự chuốc lấy bại vong (thủ bại hư)! Không thể khác được. Lại thêm một lần nữa khẳng định cái thế tất thắng của chính nghĩa, theo đó là cái lẽ tất thua của lũ giặc ngông cuồng.


"Nam quốc sơn hà", từ xưa đã được xem là một áng "thiên cổ hùng văn", một bản "tuyên ngôn độc lập đầu tiên" của người Đại Việt. Bài thơ tứ tuyệt, chỉ có 28 chữ, nhưng tình ý thì đủ đầy, sâu sắc, vô cùng sâu sắc, sẽ là mãi mãi bất hủ. Tương truyền, khi nghe "Thần" trong đền thờ hai vị Trương Hống và Trương Hát sang sảng đọc vang bài thơ này, quân sĩ Đại Việt bỗng trào dâng ý chí chiến đấu, nhất tề dũng mãnh xông lên, đánh bại kẻ thù. Còn bọn giặc Tống thì run sợ, tan tác, chuốc lấy bại vong.


Trích Vũ Bình Lục (Báo Công An Nhân Dân ngày 11.11.2022)




Comments


z5331317576545_8b6db3d32150fb10843da4071341c4b8.jpg

Trị bệnh tận gốc

Hiểu về các căn bệnh và nguyên nhân gốc rễ hình thành bệnh

bottom of page